GNO
 - Được sự đồng ý của tác giả - Giáo sư Cao Huy Thuần, Báo Giác Ngộ trân
 trọng giới thiệu cùng quý độc giả bài viết sau đây, về Đại lão Hòa 
thượng Thích Trí Quang. 

Giáo sư Cao Huy Thuần
(Thầy
 tôi, Trưởng lão Hòa Thượng Thích Trí Quang, vừa thị tịch hôm qua, 
8-11-2019. Di huấn để lại: không bàn thờ, không bát nhang, không báo 
tang, không phúng điếu, không vòng hoa, không đưa đám. Tôi chỉ xin phép 
Thầy thắp một nén nhang tưởng niệm)
Tôi
 có hai lần khai sinh. Lần thứ nhất khi tôi sinh ra. Cha mẹ tôi cho tôi 
hình hài, máu huyết. Nhưng tôi chưa biết tôi là ai, sống như thế nào, 
trên đường nào tôi sẽ đi. Sinh ra, tôi có hai mắt. Nhưng chưa thấy đường
 đời. Phải đợi đến khi lên chùa Từ Đàm, sau ngày ông Diệm bị lật đổ, tôi
 mới thấy con đường sẽ đi. Thảo nào chữ nghĩa bác học gọi con đường là 
đạo. Thấy đạo, tôi khai sinh cho tôi.
Đầu
 năm 1964, một nhóm giáo chức đại học Huế họp nhau tại trường Đại học sư
 phạm để quyết định về việc ra một tờ báo tranh đấu tiếp nối khí thế của
 "cách mạng" 1963, chống lại khuynh hướng lập một "chế độ Diệm không có 
Diệm" được người Mỹ ủng hộ. Trong dự định ban đầu, tờ báo là tiếng nói 
của lực lượng giáo chức và sinh viên Huế đã tham gia vào việc lật đổ 
Diệm. Chuếnh choáng hơi men chiến thắng của một cuộc nổi dậy thành công,
 tham vọng của chúng tôi là biến đại học thành một thành trì chống độc 
tài. Tuổi trẻ thường có những giấc mơ phạm thượng. Buổi họp giao cho ba 
chúng tôi, anh Tôn Thất Hanh, anh Lê Tuyên và tôi, trách nhiệm suy nghĩ 
và điều khiển tờ báo. Tên của tờ báo, Lập Trường, là do chúng tôi đặt 
ra.
Lúc đó tôi 27 
tuổi. Ít lâu sau buổi họp, tôi được mời ăn cơm với ông tướng chỉ huy 
Vùng I chiến thuật. Khi đó tôi mới thấy mình đang chơi một trò chơi quá 
so le trước gươm giáo, với một tuổi đời còn quá non và một tầm nhìn 
không xa hơn quyển sách. Quần chúng, tờ báo có. Nhưng dăm ba anh nhà 
giáo thì an ninh quân đội muốn tóm lúc nào chẳng được? Nương thế "cách 
mạng", chúng tôi ra báo không cần xin phép, nhưng anh sĩ quan tâm lý 
chiến đang ngồi ăn cơm chình ình trước mắt tôi, tôi qua mặt anh ta được 
chăng? Viết bài thì phải có lập trường chống Cộng hẳn hoi, anh ta khuyên
 nhủ thế, không chống Cộng tức là thân Cộng. Tôi viết thế nào đây? Viết 
thế nào khi có một bức màn sắt chia hai giữa quân đội và quần chúng, một
 bên biện minh rằng đảo chánh Diệm là để chống Cộng tốt hơn, một bên đòi
 thanh trừng vây cánh của chế độ cũ để khỏi bị độc tài đàn áp nữa? Trong
 tình thế đó, Lập Trường là con chuột nhắt khốn đốn dưới nanh vuốt của 
ba con mèo: tướng tá, người Mỹ, và dư đảng Cần Lao của ông Diệm.
Về
 chiến thuật, chúng tôi có thể tạm thời tìm đường sống bằng cách khai 
thác mâu thuẫn quyền lực giữa các tướng tá cát cứ mỗi vùng để giữ một 
thế đứng độc lập ở miền Trung, làm đối trọng với thủ đô Sài Gòn. Nhưng 
đó không phải là một cái thế trường kỳ. Cũng về chiến thuật, chúng tôi 
có thể nói với người Mỹ: ông chống Cộng mà không có dân thì ông chống 
với ai? Ông hô hào tự do mà ông không để cho dân tự định đoạt vận mệnh 
của mình bằng lá phiếu thì ông tự do chỗ nào? Nhưng đó là lấy lý nói với
 lý; trên thực tế người Mỹ đâu có làm chiến tranh vì lợi ích của dân 
Việt Nam? Chỉ với hai con mèo ấy thôi, chuột nhắt chúng tôi đã chưa biết
 tờ báo sẽ sống chết lúc nào. Nói gì con mèo thứ ba, các lực lượng tôn 
giáo quá khích, sinh ra và lớn lên nhờ chiến tranh. Chỉ với một lý luận 
này thôi, họ đã dồn chúng tôi vào chỗ bí: quốc sách đã là chống Cộng, 
vậy thì chỉ có chống Cộng với những lực lượng chống Cộng, không thể 
chống Cộng với những kẻ lừng khừng.
Chỗ
 dựa duy nhất của chúng tôi là quần chúng đang căm giận dư đảng của chế 
độ cũ. Nhưng quần chúng mà không có tổ chức thì khác nào gạch đá không 
có xi măng? Sự thế hiển nhiên thúc đẩy chúng tôi đi tìm xi măng. Nghĩa 
là lên chùa Từ Đàm! Chứ đâu nữa? Từ Đàm chẳng phải là nơi đã khởi đầu và
 tạo nội dung, hình hài, ngọn lửa cho cuộc tranh đấu hay sao? Tôi phải 
kể rõ ngọn ngành như vậy để giải thích tại sao một tờ báo bắt nguồn từ 
đại học lại trở thành một tờ báo được xem như tiếng nói bán chính thức 
của Từ Đàm, nghĩa là của Phật giáo.
Chùa
 không làm chính trị: thái độ đó của Phật giáo chắc như đinh đóng cột. 
Lý tưởng của bọn trẻ chúng tôi cũng vậy, trùng hợp với chùa như bản 
chính với bản sao, có ông trời đóng dấu. Hồi đó, Sartre là ông thần 
triết lý của thời đại chúng tôi, và vở kịch "Les mains sales" của ông 
làm chúng tôi mê tít: chính trị là lĩnh vực của "những bàn tay bẩn" mà 
chúng tôi ghê tởm. Chúng tôi đang say men tranh đấu, chưa thừa hưởng 
được bả rượu chính trị của các bậc trưởng thượng. Lên chùa Từ Đàm với 
tâm hồn phơi phới giống như đi tìm lại thời gian chưa mất, nói phỏng 
theo văn chương của Proust. Một lần nữa, tôi kể rõ ngọn ngành như vậy để
 trả lại cho César cái gì của César: tờ Lập Trường không phải là do chùa
 Từ Đàm lập ra, không phải là công cụ chính trị của Thầy tôi.
Thầy
 tôi, Trí Quang, ngồi trong phòng khách, nhìn ra sân khi chúng tôi đến. 
Thầy chào bằng một nụ cười, trên miệng và trên mắt. Hai mắt là cái hồn 
trên mặt Thầy. Mắt Thầy sáng quắc, dữ. Sau 1963, quần chúng thần tượng 
hóa lãnh tụ, kháo nhau "mắt Thầy có điện". Cặp mắt ấy quyến rũ tôi ngay 
từ phút đầu, không phải vì "có điện" mà vì nó trở nên hiền hòa ngay khi 
Thầy cười. Hai con mắt Thầy cùng cười với miệng, cái dữ biến đi đâu mất.
 Với cái hồn hiền hòa ấy trên mắt Thầy, tôi quên tuốt đã nói chuyện gì 
buổi chiều hôm đó, hình như chẳng có chuyện gì quan trọng, hình như cũng
 chẳng đề cập đến cả tờ báo, hình như giữa bản sao với bản chính có 
chuyện gì nữa đâu mà nói với ông trời. Thế mà, khi từ giã Thầy, chúng 
tôi có cảm tưởng như mình đã là chiếc đũa trong một bó, muốn bẻ gãy cũng
 không dễ. Tờ báo ra đời sau đó. In ở nhà in đại học và trong sự chờ đợi
 nóng hổi của quần chúng, in bao nhiêu cũng không đủ bán, bán cũng không
 nghĩ đến chuyện thu tiền. Đó là giấy khai sinh thứ hai của tôi.
Tờ
 báo ra đời trong bối cảnh "cách mạng" 1963 bị phản bội. Lý lẽ của chiến
 tranh buộc người Mỹ ủng hộ tích cực những lực lượng chủ trương chiến 
tranh; những lực lượng này, được thể, quay lại trả thù những người đã 
tham gia lật đổ chế độ cũ. Diệm đổ, nhưng chính quyền Diệm vẫn còn y 
nguyên từ trung ương đến xã thôn, với bộ máy đàn áp không suy suyển. 
Chiến tranh cho phép họ trả thù với một lý lẽ sơ đẳng và đui mù như bom 
đạn: chúng nó là cộng sản, chúng nó tiếp tay cho cộng sản, cộng sản mạnh
 lên là vì chúng nó. Chiến tranh còn cho phép họ trả thù những người cầm
 đầu phong trào một cách "hợp pháp" trâng tráo: tóm chúng nó đi lính là 
xong! Ai muốn hiểu những diễn biến chính trị trong những năm 1964-66 chỉ
 cần suy nghĩ trên sự đối đầu giữa hai tranh chấp về thừa kế: thừa kế 
Diệm hay thừa kế phong trào lật đổ Diệm. Thừa kế Diệm tức là tiếp tục 
chiến tranh và dựa trên chiến tranh để nắm quyền. Thừa kế 1963 là đòi 
tuyển cử để lập một chế độ mới. Khí giới của phe kia là bom đạn. Khí 
giới của phe này là lá phiếu. Có một lúc, người Mỹ cũng bị phanh thây: 
họ thừa biết bom đạn không giải quyết được tất cả, làm chiến tranh mà 
không có dân thì khác nào lùa dân qua phía cộng sản. Nhưng, như một ngạn
 ngữ của họ đã nói, rốt cuộc "chim cùng lông thì cùng bay với nhau".
Thế
 nhưng, oái oăm của thời cuộc, dân chúng cũng không phải là con số 
không, dù là trước mắt tướng tá. Lồng trong chiến tranh còn có một bối 
cảnh khác cũng lao xao binh khí: tranh giành quyền lực giữa các ông 
tướng chỉ huy các vùng chiến thuật. Giữa họ với nhau, đảo chánh lật nhau
 không khó; giữ thế đứng của mình trong vùng cát cứ khó hơn, mà muốn thế
 phải dựa vào dân, trước hết là mấy ông "nhân sĩ" được dân nghe. Chúng 
tôi, ở miền Trung, có cái thế đó để đối đầu với các ông tướng ở Sài Gòn 
và đòi họ "cách mạng". Trong bối cảnh ấy, Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc 
(HĐNDCQ) ra đời tại Huế năm 1964. Do tờ Lập Trường chủ xướng, hành động 
này là để bảo vệ thành quả của 1963, chống lại một cuộc đảo chánh ở 
trung ương của phe tướng tá thân chế độ cũ. Tổ chức này cũng vậy, không 
do Thầy tôi đẻ ra; lúc ấy Thầy đang ở Sài Gòn. Ai học lịch sử cách mạng 
Pháp đều biết Comité de Salut public. Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc là dịch
 nguyên văn tổ chức của Robespierre. Trong đầu bọn trẻ trí thức nửa mùa 
chúng tôi hồi đó, 1963 như được ủ hơi men của cách mạng 1789 thần thoại.
Ra
 đời chưa kịp khóc ba tiếng, các tỉnh ở miền Trung đã tức tốc đẻ theo, 
cùng một khuôn, một mặt, các HĐNDCQ địa phương. Tự động đẻ. Chẳng do chỉ
 thị một ai. Rồi cũng tự động, các HĐNDCQ khắp miền Trung kéo nhau về 
Huế để thống nhất đường lối. Tranh đấu trở thành chính trị. Mà toàn là 
tự động! Ký giả ngoại quốc bắt đầu kéo nhau đến Huế, tưởng như sắp chứng
 kiến một màn thay bậc đổi ngôi. Người Mỹ lân la dọ ý chúng tôi về tướng
 Thi, tư lệnh Vùng I, tưởng như HĐNDCQ sắp sửa làm bàn đạp cho một người
 hùng mới. Miền Trung bỗng nhiên trở thành trung tâm chính trị mà Huế là
 đầu não một cách tự phát, tự phất. Quần chúng hưởng ứng nhiệt liệt, 
chẳng cần biết lãnh tụ của HĐNDCM là Bác sĩ Quyến hay là ai. Mơ hồ, họ 
chỉ thấy ai đó "đằng sau" tờ Lập Trường, nghĩa là Thầy tôi.
Họ
 thấy như vậy cũng không phải là vô căn cứ. Không có Thầy, sao lại có 
một "Thư về Huế" của Thầy đăng trong Lập Trường, ngày 23-5-1964? Thầy 
viết: "Tiếng "thầy" được kêu lên trong khi chết chóc, trong cơn điên 
loạn, trong những ngày Từ Đàm bị bao vây và tấn công như một chiến khu, 
tiếng "thầy" được gọi lên trong nước mắt và máu, tiếng "thầy" đó, tôi 
biết Phật tử Huế đã dành cho tôi". Giữa lãnh tụ và quần chúng, mấy ai có
 được sự gắn bó thiết tha như vậy. Chừng đó thôi, mấy lời tình cảm huyết
 lệ ấy đủ để quần chúng biết Thầy ở đâu mà đứng theo Thầy. Từ tờ Lập 
Trường cho đến HĐNDCQ, tôi lặp lại, trí thức ở Huế không phải là công cụ
 của Thầy, Thầy không nhúng tay vào bất cứ hành động nào của họ, nhưng 
không có Thầy thì họ không phải là họ, được dân thương đến thế. Ai muốn 
hiểu Thầy tôi thì hãy hiểu Thầy qua ngọn lửa Quảng Đức, đừng lầm Thầy 
như một chính trị gia, vị thế đó thấp kém lắm, không xứng đáng với Thầy.
 Tự gánh trên vai trách nhiệm về ngọn lửa Quảng Đức, Thầy không thể cho 
phép thời cuộc phản bội lại ngọn lửa đó, chỉ thế thôi.
*

"Có lúc Thầy được đội cả hai cái mũ một lần. Lẳng lặng, Thầy nói với người thân: "Càng nhiều mũ càng tỏ ra thật không có mũ nào..."
Nhưng
 thời cuộc không phải lúc nào cũng chiều Thầy. Miền Trung, trở thành một
 trung tâm chính trị, sẽ đưa Thầy vào một thế khó xử, khi tranh chấp 
giữa địa phương với trung ương leo thang đến mức ly khai. Ly khai? Sao 
nghe được! Nhưng bỏ quần chúng nửa đường, sao đành! Thầy như một sĩ quan
 chỉ huy một chiến hạm bị địch bắn đắm, danh dự phải giữ là chịu đắm 
theo tàu. Đây là nguồn cơn của biến động miền Trung năm 1966. Một biến 
động đè nặng trong lòng Thầy, khó nguôi.
Bối
 cảnh của 1966 là chiến tranh lan rộng, tiến gần thành phố, ban đêm đại 
bác đã dội về tận Sài Gòn, làm rung cửa sổ. Từ chống chiến tranh, Phật 
giáo đứng lên đòi hòa bình, theo đề nghị của Thầy. Tiếng nói đó làm 
phiền cả hai bên, nhưng trực tiếp và sát cạnh là người Mỹ. Đòi cách 
mạng, họ còn nhịn. Đòi hòa bình, họ nổi khùng. Làm sao vượt qua chống 
đối của họ bằng chính triết lý căn bản của họ? Thầy đòi bầu cử Quốc hội 
lập hiến. Trong khí thế sôi động ở miền Trung, Thầy nghĩ ảnh hưởng sẽ 
lan vào Sài Gòn và bầu cử sẽ bất lợi cho những ai chủ trương chiến 
tranh. Mà thật vậy! Không riêng gì miền Trung, toàn thể các tỉnh đến tận
 Sài Gòn, mọi tầng lớp dân chúng, chỉ trừ những lực lượng tôn giáo sống 
chết với chiến tranh, nhiệt liệt ủng hộ chủ trương bầu cử để thay thế 
chế độ tướng tá bằng một chính phủ dân sự. Dân chúng biểu tình ở Sài 
Gòn, chiếm cả sân bay Tân Sơn Nhất, kêu gọi đình công, trương cả biểu 
ngữ "Yankee Go Home". Miền Trung thì khỏi nói: ngay cả quân nhân, ngay 
cả tướng tư lệnh, cũng sát cánh với dân thường, cảnh sát, công an sát 
cánh với công chức, trí thức, sinh viên, thương gia, tạo nên một phong 
trào đòi hỏi bầu cử. Đố một ông tướng nào tại vị ở miền Trung mà dám đi 
ngược lại phong trào. Đố Thiệu-Kỳ đưa được một tướng khác thay thế. Đố 
ông Kỳ lột chức được thị trưởng Đà Nẵng bằng cách nào khác hơn là dọa 
bắn vào đầu ông Mẫn. Phe quân đội chia hai: một bên là đồng minh của 
Thiệu-Kỳ, dựa trên những đảng phái và tôn giáo thánh chiến, sợ bầu cử sẽ
 có lợi cho Phật giáo; một bên là đồng minh của miền Trung, quân và dân 
hiếm khi một dạ một lòng như vậy. Một lòng đến nỗi tư lệnh sư đoàn I 
huấn luyện quân sự cho sinh viên, thanh niên, phát vũ khí cho họ để bảo 
vệ Huế, tiếp ứng Đà Nẵng, dọa sẽ chống lại Kỳ nếu Kỳ dùng bạo lực.
Quân
 và dân sát cánh tại miền Trung thì người Mỹ sát cánh với Thiệu-Kỳ trong
 chiến dịch đàn áp và phân hóa Phật giáo. Họ sẽ phân hóa được bằng cách 
lập một cánh Phật giáo đối nghịch với Thầy tôi. Nhưng trước khi đó, họ 
thẳng tay đàn áp phong trào cái đã, tại Sài Gòn trước, tại miền Trung 
sau. Phân hóa hay đàn áp, mục tiêu họ nhắm là Thầy tôi. Triệt hạ Thầy 
thì triệt hạ được phong trào hòa bình, đập nát được thanh thế miền Trung
 mà Westmoreland, mà Taylor, mà Lodge, mà Rostow xem như thành trì Phật 
giáo. Hơn thế nữa, triệt hạ Thầy tôi thì họ sẽ tương kế tựu kế tổ chức 
được một Quốc hội theo ý họ, gạt Phật giáo vĩnh viễn ra khỏi các cơ quan
 dân cử, leo thang chiến tranh. Súng đạn đi đầu lá phiếu.
Lấy
 cớ trừng phạt ly khai, ông Kỳ dồn đại quân ra Đà Nẵng, nhắm Huế. Dân 
chúng tự động đem bàn thờ ra ngoài đường để cản chiến xa từ Quảng Trị 
vào An Hòa. Trong vòng nửa giờ, các đường chính của thành phố Huế đã đầy
 bàn thờ Phật. Thầy nói: Thầy bị động. Trước sự đã rồi, Thầy ra lệnh 
chính thức. Quần chúng thỉnh Phật ra đường, hương án trang nghiêm, tụng 
niệm như ở trong nhà, như ở trong chùa. Kỳ điều đình với Thầy. Thầy 
không trả lời. Kỳ giới nghiêm, tung tiểu đoàn "Trâu Điên" xung kích, 
bắn, bắt, đánh, đập, uống bia cho say rồi vung chai đập đánh, đánh cả 
sinh viên, học sinh.
Trước
 đó, binh sĩ Vùng I và sinh viên "quyết tử" đã quyết ăn thua đủ với Kỳ, 
dàn trận bên này đèo Hải Vân, chực nổ súng. Công binh đã đặt mìn, sẵn 
sàng phá hủy các cầu từ Đà Nẵng ra, từ Quảng Trị vào, cắt đứt tiếp vận 
từ Quảng Trị. Tại Huế, đại pháo và đại liên đã được bố trí dọc theo kỳ 
đài, chỉa xuống bộ tư lệnh giới nghiêm đóng tại Phu Văn Lâu. Quân nhân 
hỏi ý Thầy. Đau xót: ông thầy tu trong Thầy không cho phép Thầy dùng bạo
 lực. Đưa bàn thờ ra đường là tranh đấu bất bạo động. Nổ súng là bạo 
động, Thầy đành bảo họ hủy mìn, dẹp súng. Nội chiến là chuyện Thầy không
 làm, dù hậu quả là cả quân lẫn dân Phật tử bị bắt, bị đàn áp sau đó. 
Thất bại, Thầy đành chịu. Nhưng bất bạo động là kim chỉ nam của Thầy. 
Khí giới duy nhất của Thầy là tuyệt thực. Bị bắt và giải về Sài Sòn, 
Thầy tuyệt thực đúng 100 ngày.
Trong
 biến cố 1966, một tờ báo lớn Mỹ đặt câu hỏi to tướng: Ông Trí Quang 
muốn gì? Muốn gì mà ông chống hết chính quyền này đến chính quyền khác? 
Muốn gì mà ông không biết nhân nhượng? Muốn gì mà ông đòi Quốc hội? Rồi 
muốn gì mà ông hết đòi Quốc hội lại chống Quốc hội? Trong bấn loạn hỏa 
mù của đảo chánh và chiến tranh, của ngoại thuộc và nội chiến, nếu chịu 
khó nhìn và hiểu thì những gì mà Thầy tôi muốn cực kỳ đơn giản, có thể 
tóm gọn vào trong một bức thư, "Thư về Huế" mà tôi đã nói ở trên.
Thầy
 tôi muốn gì năm 1964? Dân đã lật ông Diệm thì cứ tưởng là rạng đông sẽ 
sáng sau đêm tối âm u. Nhưng ai ngờ! "Ai ngờ sự vận động để cải thiện 
chính sách thực đã không đơn giản như chúng ta tưởng. Đảo chính quá dễ 
nhưng cách mạng quá khó. Hóa cho nên đời sống hiện tại của chúng ta và 
của tín ngưỡng chúng ta gần như vẫn ác mộng giống quá khứ và chưa chừng 
mà tiếp tục cả đến tương lai". Thầy muốn gì? Muốn cái đuôi của ông Diệm 
không làm khổ dân và khổ Phật giáo.
Bằng
 cách nào? "Nỗ lực và nỗ lực một cách liên tục để chấm cho dứt những 
chính sách không phù hợp với sự sinh tồn của Dân tộc và Phật giáo, phát 
triển Phật giáo bằng sự thực hiện của bản thân mà không bằng cách làm 
thương tổn các tôn giáo khác, càng nêu cao đức tính Từ bi bao nhiêu lại 
càng thực hiện đức tính Vô úy bấy nhiêu: đó là "ý thức Phật tử" đơn giản
 vô cùng nhưng khó khăn vô tận".
Đúng
 là khó khăn vô tận, vì Thầy thất bại năm 1966. Nhưng thế nào là "ý thức
 Phật tử" vào thời cuộc 1966? Là đại bác dội đêm, là chiến tranh, là 
phải hòa bình. Có người tưởng Thầy tôi đòi hỏi Quốc hội để chiếm đa số, 
để khuynh loát, để thủ diễn vai tuồng mới trên chính trường miền Nam. Họ
 chịu khó nhìn chính trị ở miền Nam một cách lô gích thì biết Thầy tôi 
muốn gì: chừng nào còn chiến tranh, chừng đó còn người Mỹ; chừng nào còn
 người Mỹ, chừng đó còn bộ máy quân sự phục vụ chiến tranh; chừng nào 
còn bộ máy quân sự phục vụ chiến tranh, chừng đó còn những thế lực ăn 
theo chiến tranh; chừng nào còn những thế lực ăn theo chiến tranh, chừng
 đó Phật giáo còn bị đè xuống, chận họng. Cách giải quyết vấn đề, đứng 
trên cương vị của một ông thầy tu, là tháo vất cái mắc xich đầu tiên, là
 chấm dứt chiến tranh! Thế là làm chính trị hay sao?
Thầy
 tôi mang đủ thứ tiếng. Có người nói Thầy thân Cộng. Có người nói Thầy 
thân Mỹ. Có lúc Thầy được đội cả hai cái mũ một lần. Lẳng lặng, Thầy nói
 với người thân: "Càng nhiều mũ càng tỏ ra thật không có mũ nào. Trái 
lại, càng nhiều mũ càng tốt: càng làm cao lên, và rõ ra, cái tư thế đặc 
biệt của Phật giáo. Nên Phật giáo không cần tránh mà còn cần đến cái tác
 dụng nghịch lý ấy".
Chính
 cái nghịch lý ấy làm nên Thầy. Thầy là một nghịch lý to tướng. Một ông 
thầy tu có tầm cỡ và sức thu hút đặc biệt của một nhà chính trị lớn, lớn
 nhất miền Nam lúc đó, nhưng lại từ khước cái khả năng hiếm có ấy để làm
 ông thầy tu. Câu hỏi mà các ký giả Mỹ đặt ra về Thầy không phải là 
không có căn cơ: họ bị Thầy thu hút như một tài năng chính trị, nên họ 
không thể tưởng tượng Thầy thật không muốn làm chính trị. Họ lầm.
Bây
 giờ thì chắc người ta hiểu Thầy hơn. Thời thế bắt buộc Thầy phải xông 
trận, như một người lãnh đạo. Nhưng đó là cái thế bất đắc dĩ của một ông
 thầy tu cỡ lớn, quá lớn để từ khước một trách nhiệm đặc biệt mà lịch sử
 bất thần đặt lên vai. Nhưng Thầy không bị lịch sử lừa phỉnh để đi vào 
con đường khác với con đường của ông thầy tu. Cái vui thú của Thầy là 
lúc Thầy được xa cái chợ chính trị để làm cái việc của ông thầy tu là 
dịch kinh, giảng kinh. Trăm ngày tuyệt thực, đó là lúc Thầy vui. Vì Thầy
 làm được cái việc Thầy muốn: viết được hai bản thảo "Nghiên cứu Khởi 
tín luận" và "Khảo luận Tây du bằng Duy thức học". Ông thầy tu tuyệt 
thực như thế nào, với tâm trạng gì? Thầy nói: "Có hai việc mà tuyệt thực
 tuyệt đối phải có. Một là phải có một tâm thức thanh thản, không buồn, 
không giận, không cầu hồ gì. Không cầu chết cũng không sợ chết, tiếp cận
 hoàn toàn với đức hỷ xả của Phật. Hai là tuyệt đối không ăn, dĩ nhiên, 
cũng không uống, không chích bất cứ thứ gì". Thân thì không ăn uống, tâm
 thì hỷ xả. Ấy là ông chính trị gia hay ông thầy tu?
Thầy
 tôi có thắng có bại trong hành động, như bất cứ ai hành động. Nhưng 
thắng, Thầy dành cho người khác hưởng; bại, Thầy nhận một mình. Thắng 
hay bại, Thầy đều cô đơn. Suốt đời, Thầy cô đơn. Sau mỗi tranh đấu thắng
 lợi, bao giờ cũng có lắm anh chính khách xun xoe sau lưng các lãnh tụ. 
Ai tranh đấu bên cạnh Thầy chỉ hưởng cơm hẩm nước rau. Suốt đời, Thầy 
không nhân nhượng với cái gian, cái ác, cái xảo quyệt, cái ma lanh ma lẹ
 của bán buôn chính trị. Về riêng Thầy, có lần tôi nghe Thầy nói một câu
 bâng quơ: nước trong quá thì không có cá. Có gì để nhậu nhẹt trong cái 
am của Thầy đâu! Ai chơi hoa, cắm hoa đều biết: dù hoa thanh khiết đến 
bao nhiêu đi nữa, sau ba ngày thì nước trong bình bắt đầu hôi. Có kẻ chỉ
 thấy hoa đẹp, không thấy nước hôi. Thầy thấy nước hôi, không dùng hoa 
đó để cúng Phật. Tôi học được ở Thầy cái nhìn đó để không sợ cô đơn 
trong cuộc đời. Và trong sự thật.
*

"Sự thực, Thầy tôi muốn cao hơn thế: Thầy muốn làm ông thầy tu".
Thầy
 sống cô đơn như vậy từ sau 1975 đến nay, không màng thế sự, khen chê, 
không thanh minh, không tiếp khách. Thầy sống như Thầy đã tuyệt thực, 
thanh thản dịch kinh. Thầy sống như để trả lời câu hỏi về Thầy ngày 
trước: Thầy chỉ là một ông thầy tu không hơn không kém, bây giờ cũng như
 bao giờ. Có điều là ông thầy tu này có cặp mắt sáng quắc, dữ thì thật 
dữ mà hiền thì thật hiền, khi dữ thì Vô úy, khi hiền thì Từ bi, hai chữ 
đỏ như son trong Lập Trường ngày trước. Tôi không biết nên nói gì với 
tuổi trẻ ngày nay ngoài hai chữ mà tôi đã học được ngày xưa.
Vô
 úy, ai cũng đã thấy nơi Thầy. Không sợ! Còn Từ bi? Từ bi không phải chỉ
 là lòng thương. Phải là lòng thương nào có thể vừa cho vui vừa cứu khổ.
 Điều này, Phật tử ai cũng rõ. Nhưng ít ai biết tại sao phải từ bi như 
là một định luật. Thầy giảng: tại vì sống là tương quan, không ai có thể
 sống một mình, cho nên sống là phải giúp nhau, cho vui và cứu khổ lẫn 
nhau. Lòng từ bi đó tạo cho mình cái nhìn bình đẳng: thấy tất cả đều 
khổ, do đó mình phải cho vui và cứu khổ hết thảy.
Thầy
 giảng, tôi hiểu suốt. Và tôi biết đó là lý tưởng của Thầy, Thầy sống 
như vậy. Nhưng thắc mắc của tôi là ông thầy tu của tôi từ bi như thế nào
 trong những hành động mà dù muốn dù không cũng mang tính chính trị? Tôi
 đọc Thầy: "Cứu cánh của từ bi là thấy người với mình là một, thân người
 tức thân ta… Do từ bi, mình tự đưa mình ra chịu khổ cho người. Xem tất 
cả như con một, thấy thân người như thân mình, thì còn có gì mà không 
làm nổi?"
Thầy tôi 
rất Thầy tôi ở mấy chữ "còn có gì mà không làm nổi". Người ta nể Thầy, 
sợ Thầy, phe nào cũng sợ Thầy là vì ở Thầy toát ra mấy chữ ấy. Nhưng cái
 gì nơi người ta sợ Thầy? Cái gì sợ từ bi? Cái ác! "Nhất là vào thời đại
 này - Thầy viết - thời đại mà về mặt tâm lý ta có thể thấy rõ rệt khắp 
đây đó hiện thân của lòng tàn ác. Tàn ác, như một ngọn lửa tỏa khói đen 
nghịt và cao ngất, phủ bọc lấy loài người đau khổ. Mà chống lại lòng tàn
 ác thì chỉ có lòng từ bi".
Phải
 đọc thêm một câu nữa để thấy văn tức là người, giọng văn của Thầy thế 
nào thì Thầy sắc như thế ấy, hiện thân ra như thế ấy trước mắt đối 
phương, nghĩa là cái ác: "Bởi vậy, kẻ nào mỉa mai rằng thời đại này mà 
còn nói đến chuyện từ bi, thì kẻ ấy chính là kẻ đang tàn ác. Kẻ nào trực
 tiếp hay gián tiếp làm tổn thương đến uy lực của từ bi là kẻ tội ác của
 nhân loại, kẻ gieo thảm họa cho loài người. Nếu phải thí dụ kẻ đó là kẻ
 ma quân thì ma quân ấy chỉ khiếp sợ mỗi một tâm lý độc nhất, tâm lý từ 
bi mà thôi".
Tôi gặp 
Thầy tôi khi lịch sử Phật giáo và lịch sử chính trị miền Nam mở đầu một 
giai đoạn mới với ngọn lửa Quảng Đức. Lịch sử đã chọn Thầy tôi làm kẻ 
đứng mũi chịu sào trong giai đoạn đó vì lịch sử biết Thầy chống cái ác 
như thế nào với một tâm lý gì. Bốn phương tám hướng đều thấy: ngọn lửa 
Quảng Đức là ngọn lửa từ bi. Riêng tôi, ở trong tầm mức thấp bé của một 
người thường, tôi thấy ngọn lửa đó tiếp tục cháy trong mấy câu hoài niệm
 Thầy viết cho Lập Trường nhân ngày giỗ đầu của 7 em bé bị đạn của lính 
ông Diệm bắn chết trước đài phát thanh Huế đêm Phật Đản 1963: "Tôi, cho 
đến bây giờ, vẫn không sao nguôi ngoai được tâm trạng của một người nhìn
 thấy đống xương thịt máu huyết bị hất vào một góc tường, xương thịt máu
 huyết của những kẻ thân yêu mới cười nói với mình trước đó không quá 10
 phút! Biết bao giờ, hay sẽ không bao giờ, con người bớt tàn bạo, biết 
xấu hổ vì tội ác của mình, để con người đừng kinh hãi vì con người".
Thầy
 tôi đi vào lịch sử chỉ vì thế: chỉ vì Thầy tự đưa thân ra gánh lấy cái 
khổ của quần chúng Phật tử, chỉ vì trong xương máu của Thầy có xương máu
 của 7 em bé trắng trong chết vì cái ác, chỉ vì Thầy lấy cái ác làm kẻ 
đồng hành khiêu khích không ngừng.
Về
 Thầy, tôi nghĩ chỉ có chuyện ấy là đáng nói. Còn tất cả chỉ là một nhầm
 lẫn to tướng không cần cải chính, bình luận: người ta tưởng nhầm Thầy 
muốn làm Richelieu, hồng y, thủ tướng của vua Louis XIII nước Pháp. Sự 
thực, Thầy tôi muốn cao hơn thế: Thầy muốn làm ông thầy tu.
Gạt qua tranh cãi về chính trị, thì cái chết như vậy là viên mãn. Đúng chuẩn mực tu hành, không rình rang, xứng đáng với hai chữ BẦN TĂNG.
Di huấn Hòa Thượng Thích Trí Quang cho thấy Ngài mất đi thì lên thẳng Phật quốc nên không cần lập bản thờ, không bát nhan vvv

No comments:
Post a Comment